Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 19-11-2024 4:48pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Hồ Khánh Duyên
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột

Trong hỗ trợ sinh sản, thụ tinh bình thường được định nghĩa là hợp tử hiện diện hai tiền nhân (2PN) sau 16-18h từ khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI). Các hợp tử không có đúng hai tiền nhân (pronuclear - PN) như 0PN (không tiền nhân), 1PN (một tiền nhân) hoặc nhiều hơn 2PN, được coi là thụ tinh bất thường và không được khuyến khích sử dụng trong lâm sàng. Trong thực hành, hợp tử có kiểu PN bất thường, thường bị loại bỏ do nguy cơ mang các bất thường về số lượng nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, khi nuôi đến giai đoạn phôi nang ở tất cả các phôi, bất kể tình trạng thụ tinh, đã cho thấy rằng nhiều hợp tử có nguồn gốc từ các noãn thụ tinh bất thường (abnormally fertilized oocytes - AFO) tạo thành phôi nang chất lượng cao. Khi được thử nghiệm, các phôi nang này có thể có bộ nhiễm sắc thể nguyên bội và có trẻ sinh sống. Do đó, nghiên cứu này nhằm xác định mối tương quan giữa sự hiện diện tiền nhân (PN) vào ngày kiểm tra thụ tinh và số lượng bộ nhiễm sắc thể khi xét nghiệm di truyền tiền làm tổ.
 
Nghiên cứu hồi cứu tại Bệnh viện đại học Valencia từ tháng 5 năm 2019 đến tháng 5 năm 2024, các hợp tử sau khi kiểm tra thụ tinh tiếp tục nuôi đến giai đoạn phôi nang, sau đó được sinh thiết tế bào lá nuôi và tiến hành phân tích PGT-A để phát hiện phôi lệch bội. Sau đó thực hiện phân tích di truyền thứ hai trên các phôi không mang lệch bội để đánh giá thể bội là lưỡng bội, đơn bội hay tam bội.
 
1982 phôi nang có nguồn gốc từ 2PN (phôi có thụ tinh bình thường được cho là nguyên bội), sau khi sàng lọc lệch bội để phân tích thể bội. Kết quả thể bội bất thường ở phôi có nguồn gốc từ 2PN là 1% (n = 20/1982): Trong đó 0,8% cho thấy thể tam bội và 0,2% thể đơn bội. 508 phôi nang có nguồn gốc từ AFO ban đầu được thu thập để phân tích PGT-A, trong số đó 246 phôi (41,1%) không mang lệch bội được thực hiện phân tích di truyền thứ hai. Kết quả cho thấy, phôi nang có nguồn gốc từ 0PN (n = 106) có 84,9% lưỡng bội (n = 90/106; 95% KTC = 76,65–91,12), 10,4% đơn bội (n = 11/106; 95% KTC = 5,30–17,81) và 4,7% tam bội (n = 5/106; 95% KTC = 1,55–10,67). Phôi nang có nguồn gốc từ 1PN (n = 94) có 48,9% lưỡng bội (n = 46/94; 95% KTC = 385–59,5), đơn bội chiếm 44,7% trường hợp (n = 42/94; 95% KTC = 34,41–55,29) và 6,4% tam bội (n = 6/94; 95% KTC = 2,4–13,4). Ở các phôi nang phát triển từ hợp tử 2.1PN và 3PN, thể tam bội chiếm lần lượt là 33,3% (n = 5/15; 95% KTC = 11,8–61,6) và 74,2% (n = 23/31; 95% KTC = 55,4–88,1); phần còn lại là thể lưỡng bội. Một dữ liệu độc lập khác, với 319 phôi nang có nguồn gốc từ AFO, sau khi phân tích PGT-A có 42,0% nguyên bội, sau đó thực hiện xét nghiệm di truyền thứ hai để xác định thể bội, kết quả cho thấy, phôi nang có nguồn gốc từ 0PN (n = 44) có 93,2% lưỡng bội (n = 41/44; 95% KTC=81,34–98,57), 4,5% đơn bội (n=2/44;95% KTC = 0,56–15,47) và 2,3% tam bội (n = 1/44; 95% KTC = 0,06–12,02). Phôi nang có nguồn gốc từ 1PN (n = 59) có 40,7% lưỡng bội, thể tam bội chiếm 6,8% và 52,5% còn lại là thể đơn bội (n = 31/59; 95% KTC = 39,12–65,70). Với phôi nang phát triển từ hợp tử 2.1PN (n = 8) và 3PN (n = 23) có 37,5% (n = 3/8; 95% KTC = 8,52–75,51) và 73,9% (n = 17/23; 95% KTC = 51,59–89,77) là thể đa bội.
 
Để cung cấp góc nhìn toàn diện về giá trị dự đoán của trạng thái bộ gen phôi khi đánh giá sự hiện diện PN, các nhà khoa học đã đánh giá kết quả bộ gen di truyền trên 380 phôi. Kết quả thể bội liên quan đến số lượng PN trong thụ tinh không điển hình như sau: 0PN (n = 150/380) có 87,3% thể lưỡng bội, 8,7% thể đơn bội và 4,0% thể tam bội; phôi nang có nguồn gốc từ 1PN (n = 73/153) có thể đơn bội ở 47,7% trường hợp, 6,5% là thể tam bội và 45,7% thể lưỡng bội; với 2,1PN (n = 23/280) và 3PN (n = 54/280) cho thấy thể tam bội chiếm 34,8% và 74,1%. Quan sát PN với công nghệ time-lapse làm tăng khả năng dự đoán trạng thái thể bội từ 28,3% lên 80,4% (p < 0,01) và giảm tỷ lệ lưỡng bội dự kiến ​​xuống 19,6% (p < 0,01). Tỷ lệ lưỡng bội và phôi có hình thái tốt cao hơn đối với độ tuổi của mẹ ≤ 35 tuổi.
 
Tóm lại, nghiên cứu cho phép đánh giá bội thể dựa trên kỹ thuật phân tích di truyền tiền làm tổ, cho thấy bằng chứng về tiện ích và lợi ích lâm sàng được cải thiện ở nhiều cấp độ. Về khả năng thử nghiệm và sử dụng những phôi khác phôi phát triển từ hợp tử 2PN, các đơn vị thụ tinh ống nghiệm có thể sử dụng thông tin quan trọng từ nghiên cứu này như một tài liệu tham khảo để hướng dẫn tư vấn bệnh nhân về tỷ lệ lưỡng bội dự kiến ​​dựa trên phương pháp đánh giá PN, đồng thời xem xét cả tuổi của mẹ và cấp độ hình thái phôi, với mục tiêu tư vấn bệnh nhân quyết định trong việc sử dụng phôi thụ tinh bất thường hướng đến mục đích cuối cùng là cải thiện kết cục lâm sàng.
 
Nguồn: Girardi L, Patassini C, Miravet ValenKTCano J, Sato Y, Fagundes Cagnin N, Castellón JA, Cogo F, Zambon P, Blesa D, Jimenez Almazan J, Akinwole A, Coprerski B, Rubio C. InKTCdence of haploidy and triploidy in trophectoderm biopsies of blastocysts derived from normally and abnormally fertilized oocytes. J Assist Reprod Genet. 2024 Oct 8. doi: 10.1007/s10815-024-03278-4. Epub ahead of print. PMID: 39378000.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK